Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

SỰ TÍCH BÀI THƠ “CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ” CỦA NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN

LÊ GIA NINH
Phùng Quán 1955

Ngày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội bừng lên niềm vui giải phóng. Thủ Đô ngập trong cờ, hoa, khẩu hiệu và nắng thu…Những chàng trai Hà Nội ngày “ra đi đầu không ngoãnh lại”(Nguyễn Đình Thi), trải qua ba ngàn ngày xông pha chiến trận nay trở về trong niềm hân hoan chào đón của bà con thủ đô.
    Sau những giờ phút thiêng liêng, hồ hởi, những xúc động tràn nước mắt là những ngày cam go, gian khổ. Nước cộng hòa trẻ tuổi phải đối đầu với biết bao thử thách. Tổ Quốc mới dành một nửa” nửa còn trong lửa nước sôi”( Tố Hửu). Ở miền Bắc,giặc Pháp sau khi cuốn gói để lại đói nghèo của bảy mươi năm đô hộ và chiến tranh xâm lược với ” những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều”( NĐT), những lô cốt, bông ke, bom mìn rình rập trong lòng đất…
  Trong lúc đó, Cải cách ruộng đất, cuộc cách mạng vô sản long trời lở đất như một tảng đá đè nặng lên miền Bắc.
   Miền Bắc phải gánh trên vai sứ mệnh lịch sử: Xây dưng miền Bắc và thống nhất nước nhà. ” Kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế” làm dậy lên khí thế ra quân. Những cánh đồng hoang chằng chịt dây thép gai, cỏ dại, ngổn ngang đồn bốt, bong ke, chiến hào được khai hoang, phục hóa thay vào hai vụ chiêm mùa. Những nhà máy bị giặc Pháp tháo gở, đặt mìn phá hủy được công nhân dùng máu mình gìn giữ, bảo vệ, khôi phục sản xuất. Trường học đã vang lừng tiếng hát…
   Song, trong xã hội lúc bấy giờ đã xuất hiện những mảng tối, Nạn tham nhũng đã manh nha từ trong kháng chiến chống Pháp mà bản án cao nhất đối với một đại tá hậu cần và một thứ trưởng bộ nông nghiệp mà Bác Hồ phê chuẩn là một bằng cớ, nay có điều kiện “nẫy nòi sinh sôi” và trở thành ” quốc nạn” sau nầy. Phùng Quán lúc bấy giờ đã dự cảm:
” thói dối trá, đạo đức giả, tệ quan liêu, tham nhũng, tuy ngày đó chỉ mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa khôn lường đang rình phục Nhân Dân tôi, Đảng tôi; có nguy cơ làm băng hoại những gì thiêng liêng cao quý mà cả triệu người suốt thế kỷ qua không tiếc máu xương để tạo dựng, bảo vệ…”(Khai từ-Trăng Hoàng cung- PQ).
 Đảng chủ trương đưa văn nghệ sĩ đi thực tế” ba cùng( cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nhân dân trong những ngày khôi phục kinh tế sôi động và cũng rất cam go ấy vừa để cải tạo tư tưởng vưà sáng tác phục vụ nhân dân.
Nhiều nhà văn đã tỏa đi khắp mọi miền đất nước từ Tây Bắc Điện Biên xa xôi đến hải đảo đêm ngày sóng bủa…Phùng Quán về với Kiến An, Hồng Quảng, Nam Định, Thanh Hóa…Những giọt nước mắt nóng hổi của người con miền Nam, người chiến sĩ và nhà văn trẻ thấm bờ vai sần sùi, chằng chịt vết sẹo của những anh hùng bị cực hình từ địa ngục Côn Đảo trở về. Phùng Quán đã hiến dâng đứa con tinh thần, tiểu thuyết Vượt Côn đảo cho những người anh hùng vượt ngục, vượt đại dương mà anh cảm mến và kính phục. Không ngủ yên trong thành công, Phùng Quán quyết” đã đi với nhân dân thì thơ không thể khác”. Anh đến Hồng Quảng, Kiến An, Nam Định…chứng kiến cảnh lúa, khoai, hoa màu bị luộc trong những cánh đồng ướp muối, đồng cảm trước” những bà mẹ già quấn dẻ rách, da đen như củ cháy giữa rừng”, hai bàn tay rớm máu khi mở dây thép gai và san bằng bông ke, lô cốt,công sự…Bữa ăn của họ toàn những dây khoai  gầy đét.
   Lệ thường, sau một ngày làm việc mệt nhọc, Phùng Quán lang thang với phố phường vừa đi, vừa ngẫm nghĩ như đếm từng bước. Anh đã chứng kiến những chị công nhân vệ sinh trong cơn mưa phùn gió bấc, rét như cắt da thịt, dưới ngọn đèn bảo le lói múc, gánh từng thùng phân từ những hầm xí bị hư hỏng.
   Ở Nam Đinh, nơi các anh thường đi qua, công trình đài xem lễ (lễ đài để làm lễ, mít tinh, có phòng hội họp) đang bỏ dở. Công trình đã ngốn xong mười một triệu bị rút ruột để dầm mưa,giải gió…Thuở ấy, lương chị công nhân đổ thùng xí là hai mươi bảy đồng  vừa đủ nuôi con. Nếu tính ra số tiền dầm mưa giải gió ấy có thể cứu hơn bốn vạn người ăn vỏ khoai trừ bữa ra khỏi cảnh đói nghèo.
    Đi thấy, về thấy, ” Đài xem lễ” như cái gai chọc vào mắt anh, biêm vào tim anh. Phùng Quán bần thần như người ốm đói. Đến cơ quan, anh cứ lặng lẽ, ít chào hỏi ai. Có người bảo: “Phùng Quán mới có một Vượt Côn Đảo, một số bài thơ mà đã khinh khỉnh rồi”.
     Khi thân nhau như anh em ruột, cùng sướng khổ, cùng chung hoạn nạn, anh mới kể cho tôi nghe về” cái đêm hôm ấy”.
    - Sau khi lang thang với phố phường về, minh mặc cái áo trấn thủ lính, đội mũ Vệ Quốc đoàn có ngôi sao sáng chói, đạt ống thuốc lào như khẩu bazoka hướng nồng về phía trước, chân gác lên thành ghế trong tư thế xung phong, tay cầm bút viết, viết, viết liên tục, từng chữ, từng câu như trào ra đầu ngọn bút…Ban đầu là những lời” ôn nghèo kể khổ”, rồi vang lên như một lời thề “Tôi quyết tâm rời bỏ…Tôi quyết đúc thơ thành đạn…”, rồi lao lên điểm xạ từng  tên: ” lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, bé, gầy…”, rồi hô xung phong:   “Trung ương Đảng ơi! Lũ chuột mặt người chưa hết.Đảng cần một đội quân trừ diệt. Có tôi! Đi trong đội ngũ tiền phong.”- Anh cười hóm hỉnh- Mình là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn mà. Viết xong, mình thiếp đi, tĩnh dậy trời đã sáng tự lúc nào.”
     Anh định gửi bài thơ Chống tham ô lãng phí cho báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng bởi trong bài thơ anh có viết:
                       ” Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
                          E phải nghìn số báo Nhân Dân! “
      Suy đi nghĩ lại thế nào anh lại gửi cho báo Giai phẩm Mùa thu( Nhân Văn, Giai phẩm Mùa đông, Giai phẩm Mùa thu là những tờ báo ở miền Bắc ra đời một thời gian  bị qui phản động đã chịu chung số phận cùng với người sinh ra và nhiều tác giả khác). Bài thơ ra đời đã gây xôn xao dư luận trong độc giả đặc biệt là trong giới học sinh, sinh viên, nhà giáo…Nhiều người thuộc từng câu, từng chữ.
     Trong ” Vụ án nhân văn”, bài thơ Chống tham ô lãng phí không bị đấu tố.
Có người có tật dật mình chỉ cay cú nói khéo: “Bài thơ bôi đen chế độ”. Chờ đến khi ” Lời mẹ dặn” ra đời (1957) khi nhà thơ đòi được ” làm nhà văn  chân thật. Chân thật trọn đời…”bài thơ mới chịu cùng chung số phận “bị lăng nhục” cùng tác giả.
     Khi tiếp quản bộ chỉ huy Sư đoàn 1 ngụy, lục trong đống hồ sơ lộn xộn của ban 2, tôi bắt gặp tờ báo Tranh đấu của học sinh, sinh viên chống Mỹ, trong đó có những bài: Cô gai sông Hương của Tố Hữu, Màu tím hoa sim của Hữu Mai, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhất định thắng của Trần Dần, Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán. Giáo viên và sinh viên ở đây thuộc từng câu, từng chữ bài thơ Chống tham ô lãng phí  của Phùng Quán. Hóa ra, ở ngoài Bắc, Phùng Quán ” quyết đúc thơ thành đạn. Bắn vào tim những kẻ làm càn. Vào lũ người tiêu máu của nhân dân như tiêu bạc giả”. Ở miền Nam, Thầy giáo và học sinh, sinh viên lấy đạn thơ anh để bắn vào tim giặc Mỹ xâm lược.
Năm mươi năm sau ngày bài thơ Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán ra đời, nạn tham nhũng ” nẫy nòi như dòi bọ” và trở thành “quốc nạn”, quốc hội họp kỳ thứ 8, khóa 11 thông qua luật Chống tham nhũng sau một thời gian dài soạn thảo và thảo luận. Báo Thanh Niên dành một trang tuyên chiến với tham ô, lãng phí. Năm mươi năm trước, Phùng Quán  tuyên chiến với “quốc nạn tham nhũng” bị giáng trả những đòn chí mạnh,”đã trả giá cho Thơ bằng ba mươi năm tốt đẹp của đời mình(PQ).
        Năm mươi năm sau, ai sẽ trở thành Phùng Quán?
Tác giả gửi cho Quê choa
(Bài vở gửi đăng QC là chủ kiến riêng của tác giả, không hẳn là chủ kiến của QC)
   CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ                   
                                         Phùng Quán
Tôi đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bới đồn giăc, trồng ngô trỉa lúa…
 Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng
Nước biển dâng cao ướp muối cả cánh đồng
Hai mùa rồi, lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ,
Tôi đã gặp những em thơ còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mau đén Tết !
Để được ăn no có thịt
Một ngày…một ngày…

Tôi đã đi giữa Hà Nội
Những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Chị em công nhân đổ thùng
Run lẫy bẫy chui hầm xí tối
Vác những thùng phân…
Thuê một vạn một thùng
Mấy ai dám vác ?
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con…
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng, thắt lưng để sống
Để dựng xây, kiến thiết nước nhà
Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ trang kim vàng mã
         dán lên quân trang đẫm mồ hôi và
                                 máu tươi của Cách Mạng !
 Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêu bạc giả !
Các đồng chí ơi !
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng !
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ” Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm thiếu áo…
Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
Đãng đã phê bình trên báo
Còn  bao tên chưa ai biết ai hay ?
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy…
Chúng nẩy nòi, sinh sôi như dòi bọ !
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có !
Đến một ngày Đảng  muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân Dân !
Tôi đã dự những phiên tòa xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái…
Còng lưng rỏ máu lấn vành đai !
Trung ương Đảng ơi !
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng cần lập một đội quân trừ diệt
Có tôi !
Đi trong hàng ngũ tiền phong.
                            1956

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét