Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

ODA và sáu năm lặng tắt

Thời gian có lẽ đã quá đủ, không phải cho lời hô hào chống tham nhũng hay những hội nghị hoặc bàn tròn về việc rút kinh nghiệm. Cái đủ đó chỉ đến khi người ta nhận ra rằng một đất nước vẫn có thể tồn tại và phát triển mà không cần đến ODA, nhất là khi đất nước ấy chưa có gì bảo đảm để chính thức chấm dứt nạn tham nhũng.
"Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam đã đến mức báo động, các nhà tài trợ đang trông chờ những hành động cụ thể từ Chính phủ. Vốn ODA trong giai đoạn mới sẽ phụ thuộc vào hành động thực tế đó của Việt Nam" - Đó là thông điệp chính từ các nhà tài trợ cho Việt Nam tại Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra cách đây đúng 6 năm, vào ngày 9/6/2006 tại Nha Trang.
Hội nghị trên diễn ra ngay sau khi vụ tham nhũng PMU 18 bị phát giác. Cũng trong hội nghị này, trong khi bà Anna Lindstedt - đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, nhấn mạnh rằng một trong những biện pháp chống tham nhũng hiệu quả là công khai, minh bạch thông tin cho báo chí, thì báo chí lại không được tiếp cận ngay cả khu vực hành lang trước phòng hội nghị...

Đã tròn 6 năm lặng tắt kể từ sự kiện sóng gió PMU18. Trong 6 năm ấy, không biết nhận định "Việt Nam là một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất" đã được thực chứng như thế nào, chỉ biết rằng đã không có thêm bất kỳ một vụ scandal nào về ODA được lộ ra từ phía cơ quan chức năng Việt Nam. Có chăng, chỉ là vài "con sâu" như PCI - đại lộ Đông Tây xảy ra vào năm 2008 và mới đây nhất là câu chuyện người Đan Mạch đã quyết định dừng 3 dự án ODA viện trợ cho Việt Nam. Và những vụ việc ấy, đều chỉ được biết đến và làm rõ từ những người mang quốc tịch nước ngoài.
Một lần nữa, thể diện quốc gia lại bị đe dọa. Một lần nữa, ODA lại không hoàn thành chức trách nhiệm vụ đối với các nhu cầu sử dụng bức thiết ở Việt Nam, khi nguồn tài trợ này có nguy cơ bị xem xét lại - từ phía những cơ quan viện trợ quốc tế đang phải chịu búa rìu dư luận của những người dân có trách nhiệm đóng thuế cho chính phủ.
Từ năm 2006, khi vụ án PMU 18 nổ ra với hệ thống chứng cứ do phía Nhật Bản cung cấp, người ta đã phải nêu lại một triết lý then chốt và phù hợp nhất với nền tảng đạo lý: ODA không phải là tiền từ trên trời rơi xuống, mà đó là tiền đóng thuế của người dân các nước phát triển để dành cho người dân các nước đang và kém phát triển. Vì thế đương nhiên mối quan hệ giao tiếp về ODA không chỉ là giữa các chính phủ với nhau, mà thực chất nhất, đó chính là mối quan hệ trực tiếp giữa các cộng đồng nhân dân của các quốc gia. Chính người dân mới là đối tượng thụ hưởng và có toàn quyền kiểm soát đối với việc tiếp nhận và sử dụng nguồn tài trợ này.
Thế nhưng thực tế tiếp nhận và quản lý, sử dụng nguồn viện trợ ODA ở Việt Nam lại không có sự tham gia của các hội đoàn nhân dân. Ngay cả đại biểu Quốc hội - những người có chức trách đại diện cho cộng đồng nhân dân, cũng chỉ được biết đến kết quả sử dụng ODA qua các báo cáo, trong các cuộc họp thường kỳ.
Nhận thức thế nào thì hành xử thế đó. Thực tế quản lý vốn ODA đã chỉ được xếp khá xa sau phần hành quản lý vốn ngân sách. Hệ quả là đất nước phải trả giá với những hiện tượng "chi tiêu sai mục đích"... như thông tin về các dự án mà Đan Mạch tài trợ.
Điều khác là, lần này, DANIDA đã có riêng cho mình một cơ quan kiểm toán. Kết quả mà cơ quan kiểm toán công bố với dư luận quốc tế và xã hội Việt Nam đã nêu  bằng chứng cho những đồn đoán trước đó về thất thoát trong ODA: trong số 49 tỷ dồng mà dự án ODA chuyển cho phía Việt Nam, có đến 11 tỷ đã "bốc hơi", chiếm đến 23%.
Cái giá của tham nhũng
Phía trước, con đường của ODA vẫn còn dài, và có thể còn quá đậm đà cho những ai quan tâm đến nó theo chiều kích "miếng ăn không phải là miếng nhục".
Trong năm 2012, vẫn còn hơn 7 tỷ USD mà các đối tác nước ngoài đã cam kết giải ngân ODA cho Việt Nam. Xa hơn nữa về những năm tới, con số giải ngân còn có thể lên tới 20-30 tỷ USD, gần bằng một phần ba toàn bộ GDP của Việt Nam.

Nhưng ODA, như điều đã được mô tả là "cái giá của sự phát triển", lại bao gồm một phần rất lớn - 90% hoặc hơn - là vốn cho vay chứ không phải là vốn viện trợ không hoàn lại. Cuộc chơi rút ruột nguồn vốn này sẽ để lại một món nợ tiềm tàng, từ đời này sang đời khác và trong không biết bao nhiêu năm nữa, cho con cháu của họ.
Đó chính là cái giá của tham nhũng.
Ở phía trước, vẫn còn không ít công trình giao thông sử dụng vốn ODA khủng như dự án Đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây, dự án Đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, dự án Đường cao tốc Bến Lức - Long Thành, dự án xây dựng Đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, dự án xây dựng Đường vành đai III Hà Nội giai đoạn 2. Mỗi dự án đó đều tương đương đến từ 5.000 đến 10.000 tỷ đồng hoặc hơn thế...
Thời gian có lẽ đã quá đủ, không phải cho lời hô hào chống tham nhũng hay những hội nghị hoặc bàn tròn về việc rút kinh nghiệm. Cái đủ đó chỉ đến khi người ta nhận ra rằng một đất nước vẫn có thể tồn tại và phát triển mà không cần đến ODA, nhất là khi đất nước ấy chưa có gì bảo đảm để chính thức chấm dứt nạn tham nhũng.

Bộ trưởng Thăng trả lời chất vấn việc bổ nhiệm ông Dũng

Ông Bộ trưởng nói: "Việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là đúng. Tuy nhiên, qua việc này, lãnh đạo Bộ GTVT cũng rút kinh nghiệm là cần phải chủ động cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí và dư luận". Vậy đưa cho ông Thăng vài con cáo để ông "bổ nhiệm" vào chuồng gà của ông, theo đúng quy trình nhé!. Xong rồi "rút kinh nghiệm", không có ai chịu trách nhiệm, hòa cả làng hé... Ha .. ha ...

- Việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là đúng. Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ cũng rút kinh nghiệm là cần chủ động thông tin kịp thời cho báo chí, dư luận - Bộ trưởng GTVT trả lời chất vấn về trách nhiệm cá nhân trong vụ việc.

Nhận chất vấn về việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinalines Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng hải trong thời điểm nhạy cảm đơn vị đang bị thanh tra, tại văn bản trả lời đại biểu QH đề ngày 4/6, người đứng đầu ngành GTVT xác nhận, chức danh Cục trưởng Cục Hàng hải là do Bộ trưởng quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm.

Về quá trình thực hiện chủ trương bổ nhiệm, Bộ trưởng Đinh La Thăng phân trần, kết quả lấy phiếu kín tại buổi họp giữa đại diện Bộ GTVT, Nội vụ và đại diện Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương với Hội đồng Thành viên, Thường vụ Đảng ủy TCty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) ngày 15/12/2011, 6/6 thành viên hội đồng thành viên nhất trí việc điều động và bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng giữ chức Cục trưởng.
Trước khi ký, quyết định bổ nhiệm đã được các cơ quan liên quan thẩm định chặt chẽ theo quy định. Việc bổ nhiệm ông Dũng, theo đó, đã được thực hiện đúng thẩm quyền, quy trình, quy định của pháp luật, từ khi xin chủ trương đến khi quyết định là gần 5 tháng.

Bộ trưởng Thăng cũng giải thích, thực chất việc bổ nhiệm ông Dũng làm cục trưởng về cấp bổ nhiệm và chức vụ Đảng là thấp hơn.

Về thời điểm bổ nhiệm, ông Thăng lý giải, việc thanh tra tại Vinalines là thực hiện theo kế hoạch thanh tra năm 2011, không phải thanh tra đột xuất hoặc thanh tra theo đơn tố giác, tố cáo.

Theo quy định hiện hành của pháp luật, khi một doanh nghiệp hay một đơn vị trong quá trình thanh tra thì mọi hoạt động của doanh nghiệp, đơn vị được thanh tra vẫn diễn ra bình thường trong đó có công tác nhân sự. Thời điểm bổ nhiệm ông Dũng là trước khi có kết luận của Thanh tra Chính phủ.

“Phải khẳng định việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục và đã được các cơ quan chức năng có liên quan thẩm định kỹ. Tuy nhiên, qua việc này, lãnh đạo Bộ GTVT cũng rút kinh nghiệm là cần phải chủ động cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí và dư luận” - Bộ trưởng GTVT nói.

Trong văn bản trả lời chất vấn, ông Đinh La Thăng cũng cung cấp cho đại biểu những thông tin về sai phạm của ông Dương Chí Dũng. Theo đó, ngày 16/2 đoàn Thanh tra Chính phủ đã trao đổi với lãnh đạo Vinalines về những dấu hiệu sai phạm của tập thể Hội đồng Thành viên Vinalines mà đứng đầu là ông Dũng.

Đến thời điểm này, lãnh đạo Bộ GTVT mới biết về những sai phạm của ông Dũng. Trong suốt thời gian thực hiện quy trình bổ nhiệm, Bộ không nhận được bất kỳ thông tin nào từ các cơ quan chức năng hay đơn thư khiếu nại, tố cáo nào về sai phạm của ông Dũng. Việc điều tra tại Vinalines của cơ quan công an là bí mật, nên Bộ hoàn toàn không được biết.

Kinh phí xây trụ sở chủ yếu do tự huy động

Ngoài nội dung về việc bổ nhiệm, Bộ trưởng Thăng còn nhận chất vấn về kế hoạch xây dựng trụ sở mới của Bộ. “Trong tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, số tiền chi cho dự án quá lớn (hơn 12.000 tỷ đồng) và băn khoăn việc lập dự án với quy mô như vậy đã đúng với quy định hiện hành về xây dựng và sử dụng trụ sở của cơ quan nhà nước chưa?” – đại biểu nêu câu hỏi.

Bộ trưởng Thăng khẳng định, đề án này được xây dựng trên cơ sở định hướng cho cả quá trình trong giai đoạn dài đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, không phải tiến hành ngay trong thời điểm hiện nay. Nguồn kinh phí được dự kiến chủ yếu trên cơ sở nguồn vốn tự huy động.

Minh Hiền

ĐƯỜNG DÂY BÁN DÂM “NGÀN ĐÔ”: Mua dâm là các “đại gia chân đất”!

Có một cuốn tiểu thuyết rất hay lấp ló sau chuyện này: Một cô thôn nữ từ một gia đình nghèo ở Sóc Trăng, không đủ ăn nên lên Sài Gòn bán vé số, nhờ có chút nhan sắc nên "đổi đời" thành hoa hậu, vì muốn có nhiều tiền cho bằng chị bằng em, đua đòi nhà lầu, xe hơi nên đã sa vào con đường bán dâm, tình cờ gặp lại một anh nông dân cùng xóm, nhờ bán đất mà trở thành đại gia, cả hai thỏa thuận ......là 2500 đô la! Không ngờ bị CA bắt giữ vì tội mua bán dâm, phải vào vòng tù tội... Thực tế xã hội hiện nay sau giống trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh wá...He he....

(NLĐO) - Những đối tượng mua dâm là những đại gia “chân đất” vùng ven, phất lên nhờ các dự án bất động sản!
Ngày 5-6, Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội (PC45) Công an TPHCM tiếp tục triệu tập một số đối tượng liên quan đến đường dây bán dâm gồm các hoa hậu, hoa khôi, người mẫu và diễn viên điện ảnh vừa bị bắt quả tang vào ngày 2-6 (Báo Người Lao Động đã thông tin).

Nông dân thèm… hoa hậu

Những ngày qua, dư luận cho rằng để bỏ ra số tiền khá lớn mua dâm các hoa hậu, hoa khôi phải là những đại gia thứ thiệt, có đẳng cấp trong giới kinh doanh như xăng dầu, tài chính và ngân hàng.

Thậm chí có thông tin cho rằng trong 4 đối tượng mua dâm bị bắt quả tang có một người tên H, hiện công tác trong ngành truyền thông tại TPHCM. Khi bị bắt, ông H “kể lể” mình là “bà con” của nguyên lãnh đạo của một tờ báo!

Tuy nhiên, trong thực tế, những đối tượng mua dâm là những đại gia “chân đất” vùng ven, phất lên nhờ các dự án bất động sản, gồm: N.V.N (SN 1960, ngụ ấp 2, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh - TPHCM), T.T.H (SN 1979, ngụ ấp 1, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh - TPHCM), T.V.T (SN 1960, ngụ đường Phạm Hùng, ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh - TPHCM) và Đ.V.M (SN 1968, ngụ cùng ấp với ông T.V.T).

Sau khi vụ việc được phanh phui, một cô gái nói giọng miền Nam, từ số ĐTDĐ 0986.63xxxx, tự xưng là Hoa khôi Lê Thị Yến Duy gọi đến Báo Người Lao Động để giải bày: Từ khi đạt danh hiệu Hoa khôi Duyên dáng thời trang Bến Tre 2010, Yến Duy đã không hoạt động trong lĩnh vực người mẫu nhưng không cho biết mình hiện nay làm nghề gì!

Yến Duy cũng cho rằng mình… không bán dâm, vì nếu bán dâm phải “show” hình mặc đồ tắm để đưa lên mạng như những cô hoa hậu, hoa khôi, người mẫu bán dâm khác!

Thế nhưng, chiều 2-6, khi ập vào khách sạn Hà Phương Trang ở số 106 bis Nguyễn Văn Cừ (phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1), các trinh sát PC45 Công an TPHCM bắt quả tang Lê Thị Yến Duy (SN 1990, quê Bến Tre; hiện ngụ đường Gò Dầu, phường Tân Quý, quận Tân Phú – TPHCM) cùng với Nguyễn Thị Minh Nhài (SN 1989, quê tỉnh Đồng Nai, hiện ngụ đường Phạm Hùng, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh – TPHCM) nghệ danh Ngọc Thúy –người mẫu thời trang của Công ty Promotion Look và đã từng tham gia vai diễn trong bộ phim truyền hình 40 tập có tựa “Bước chân hoàn vũ” phát sóng trên kênh HTV9- đang bán dâm cho 2 “đại gia chân đất” là T.V.T và ông Đ.V.M.

Cùng thời điểm bắt quả tang các người đẹp đang bán dâm tại khách sạn Hà Phương Trang, một tổ trinh sát khác của PC45 cũng ập vào khách sạn Kim Linh ở số 116-118 Bùi Thị Xuân (phường Bến Thành, quận 1) bắt quả tang hot girl Jenny Phương (tức Lê Thị Thúy Hường, SN 1993, ngụ đường Lý Tự Trọng, phường Bến Thành, quận 1) và L. T. H. D (SN 1987, sinh viên năm thứ nhất một trường trung cấp nghề du lịch, đang làm việc tại một khách sạn tư nhân) đang bán dâm cho ông N.V.N và T.T.H.

Còn nhiều “mỹ nhân” chưa bị phát hiện

Ngoài việc bắt giữ “tú bà” Trần Quang Mai (SN 1972, ngụ phường 1, quận 3 – TPHCM), “tú ông” Nguyễn Hữu Đạt (SN 1969, ngụ phường 26, quận Bình Thạnh - TPHCM), “má mì” hoa hậu Võ Thị Mỹ Xuân (SN 1985, ngụ phường Bình Khánh, quận 2 – TPHCM), cho tại ngoại đối với á khôi Thiên Kim (tức Trần Thị Hoa, SN 1986, ngụ đường Nguyễn Cửu Vân, phường 17, quận Bình Thạnh - TPHCM) vì đang mang thai; Cơ quan CSĐT Công an TPHCM cũng bắt giữ “tú ông” Lê Quang Tuấn Anh (tức “Kevin” Lê, SN 1985, quê Lâm Đồng, ngụ đường Huỳnh Văn Bánh, phường 11, quận Phú Nhuận – TPHCM) để điều tra hành vi “môi giới mại dâm”.

Theo điều tra của công an, năm 2005, Tuấn Anh sang Hàn Quốc học nghề trang điểm. Đến năm 2006, Tuấn Anh tốt nghiệp và về Việt Nam làm việc tại một vài công ty người mẫu nổi tiếng. Sau đó, đối tượng này tiếp tục sang Singapore chuyên tu 3 năm để nâng cao tay nghề.

Do từng tham gia một số cuộc thi người mẫu, chương trình truyền hình Vietnam’s Next Top Model, cộng với tay nghề khá nên Tuấn Anh mở tiệm Salon Beauty trên đường Huỳnh Văn Bánh (quận Phú Nhuận) để trang điểm, làm đẹp cho phụ nữ, thu hút khá đông giới người mẫu, hoa hậu, hoa khôi đến trang điểm.

Do có mối quan hệ khá rộng với người đẹp nên đối tượng này rủ rê, lôi kéo rất nhiều người đẹp vào đường dây bán dâm cao cấp của riêng mình. Thậm chí, hoa hậu Mỹ Xuân, á khôi Thiên Kim cũng từng thông qua sự môi giới của Tuấn Anh để bán dâm!

Cũng theo cơ quan điều tra, liên quan đến đường dây bán dâm cao cấp, theo lời khai của các má mì, tú ông bị bắt thì có khá nhiều người mẫu, diễn viên điện ảnh, hoa khôi… từng tham gia bán dâm cho các đại gia thứ thiệt ở trong nước lẫn nước ngoài. Tuy nhiên, do không bắt quả tang nên cơ quan công an chỉ xử lý các đối tượng vừa bị bắt.

Hiện vụ án vẫn đang được tiếp tục điều tra, cơ quan công an đang khẩn trương truy bắt một đối tượng tên Huy nằm trong đường dây bán dâm cao cấp hiện đã bỏ trốn để xử lý hành vi “môi giới bán dâm”.
YẾN THANH

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Nên trở về với nền cộng hòa dân chủ theo tư duy Hồ Chí Minh

Kha kha... Chỉ có Ông Đào Công Tiến mới dám nói và Báo của Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam mới dám đăng mấy bài thế này thui... Mà đi hết mấy chục năm rùi giờ phải quay trở lại thì thế giới đã đi lên đến....cung trăng cả rùi....

(Tamnhin.net) - Tinh thần nền cộng hòa theo tư duy của Hồ Chí Minh mà chúng ta có thể cảm nhận được là:

Tinh thần của nền công hòa

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Theo tư duy của Hồ Chí Minh, đó là những lời bất hủ về tinh thần của nền cộng hòa, mà Người tiếp nhận được từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Những lời bất hủ ấy cũng đã được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Với khát vọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước; ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, thoát khỏi áp bức bất công cho nhân dân, Hồ Chí Minh cũng đã đến với chủ nghĩa “Tam dân”: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc, như đến với những giá trị của tinh thần cộng hòa ở phương Đông.

Mục tiêu tối thượng là giải phóng thuộc địa từ tay thực dân Pháp giành lại độc lập cho đất nước và lợi quyền cho nhân dân, đã thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với Lênin, qua bài viết của Lênin về vấn đề thuộc địa. Vấn đề này, ở khía cạnh giải phóng các dân tộc thuộc địa khỏi áp bức bóc lột, bất công do đế quốc thực dân gây ra, thiết nghĩ cũng không nằm ngoài tinh thần cộng hòa - là cái mà Hồ Chí Minh cần tìm, chọn cho Việt Nam.

Tinh thần cộng hòa theo tư duy và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với việc lựa chọn chính thể cho Việt Nam sau khi giành được độc lập, bao gồm một số nội dung cơ bản như:

- Nền cộng hòa dân chủ.

- Sứ mệnh và tầm nhìn của nền dân chủ cộng hòa ấy là: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

- Tất cả quyền bính là của toàn thể nhân dân, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả quyền bính đó, được cụ thể hóa trong 11 điều (từ điều 6 đến 16) của Hiến pháp năm 1946, đến nay vẫn còn nguyên giá trị của tính thần cộng hòa, dân chủ.

- Tất cả công dân đều bình đẳng trước pháp luật – ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, là cơ sở pháp quyền cho sự phát triển của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Sự bất cập của thể chế

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập được bầu ra tại cuộc tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946.

Trải qua trên 65 năm, Hiến pháp năm 1946 đã qua 3 lần sửa đổi vào các năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Ba lần sửa đổi đó, mà nhất là lần sửa đổi năm 1992 đã có khoảng cách khác biệt khá xa với tinh thần cộng hòa, dân chủ mà Hiến pháp năm 1946 đã chọn.

Hiến pháp năm 1992, chọn chế độ chính trị là xã hội chủ nghĩa trong cụm từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa thay cho Dân chủ Cộng hòa của Hiến pháp 1946.

Vậy xã hội chủ nghĩa (XHCN) là gì mà vừa thay cho Cộng hòa Dân chủ, lại vừa gắn kết với cộng hòa trong cụm từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa?

XHCN được đề cập ở đây là một hình thái xã hội (xã hội XHCN), mà những người phát kiến ra nó đã đưa vào đó những ý tưởng rất nhân văn, rất đáng được trân trọng. Nhưng mô thức tổ chức vận hành của hình thái xã hội XHCN cả trên góc độ lý thuyết lẫn thực tiễn, lại có không ít những nội hàm không hợp lý, quá lạc hậu, nhất là lạc hậu so với sự phát triển của xã hội hiện đại vốn mang những đặc tính cơ bản đã được sàng lọc, lựa chọn trong quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại, bao gồm kinh tế thị trường, xã hội dân sự và Nhà nước pháp quyền.

Nền tảng chính trị tư tưởng và là kim chỉ nam của sự phát kiến hình thái xã hội XHCN là học thuyết Mác - Lênin. Mà với nhiều kết quả nghiên cứu, lý luận và tổng kết thực tiễn cho biết – học thuyết Mác-Lênin có cái trước đúng nay vẫn đúng, có cái trước đúng nay không còn phù hợp vì bối cảnh xã hội đã có quá nhiều thay đổi, có cái trước và nay đều không đúng. Đơn giản chỉ vì nó “không phải là một học thuyết đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch nào đó”, như cách nói của chính Lênin.

Vì thế, mô thức tổ chức xã hội XHCN, tự thân nó có nhiều khuyết tật gây bất ổn cho hệ thống giải pháp phát triển và hoàn thiện xã hội. Những khuyết tật gây bất ổn đó đã và đang tồn tại gắn liền với một số đặc trưng cơ bản như:

Tổ chức xã hội theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội. Coi Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản và trên thực tế đã không tránh khỏi tình trạng lấy vô sản chuyên chính dân tộc đánh vào khối đại đoàn kết dân tộc.

Mô thức tổ chức và vận hành nền kinh tế bị chi phối hầu như tuyệt đối bởi chế độ công hữu tư liệu sản xuất (bao gồm cả ruộng đất) là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo và phương thức kế hoạch hóa tập trung, bao cấp thay cho phương thức thị trường. Chọn mô thức tổ chức và vận hành như thế là không phù hợp với tinh thần “lấy dân làm gốc”, không khuyến khích và tạo điều kiện cho việc phát triển mọi nguồn lực của dân từ khu vực dân doanh.

Trong khi đó, khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là các tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn được quá nhiều ưu ái, giao cho quá nhiều nguồn lực (cả nguồn lực cứng lẫn nguồn lực mềm) vượt quá tầm quản lý (cả quản trị kinh doanh và quản lý nhà nước), và hệ lụy khôn lường đã và đang đến là vừa kinh doanh không hiệu quả, vừa làm vẩn đục môi trường kinh doanh, tạo quá nhiều lỗ hổng cho cạnh tranh không lành mạnh, gây lãng phí, thất thoát và tham nhũng vô phương cứu chữa.

Đảng nắm quyền lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, và trên thực tế quyền lãnh đạo đó đã trở thành siêu quyền lực, ( có nơi có lúc là Đảng trị cộng với sùng bái cá nhân) đặt lên trên dân quyền và pháp quyền. Sự hiện hữu của siêu quyền lực như vậy, không phù hợp với tinh thần đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật. Tập trung thái quá quyền lãnh đạo của Đảng làm cho Đảng bị tha hóa và cũng làm cho các bộ phận quyền lực khác của hệ thống chính trị nói riêng và toàn xã hội nói chung (bao gồm quyền của người dân và công dân) bị vô hiệu hóa, trở thành hữu danh vô thực. Hệ lụy đã và đang đến là, đã mất quyền thì cũng mất luôn trách nhiệm xã hội, khiến cho xã hội không có người làm chủ đích thực và trở thành chỗ dung thân hợp pháp cho thói vô trách nhiệm và vô cảm.

Mô thức tổ chức vận hành xã hội XHCN với những đặc trưng vốn hàm chứa nhiều khuyết tật gây bất ổn cho giải pháp phát triển và hoàn thiện xã hội như vậy thực sự không còn đáng được tồn tại trong sự lựa chọn thể chế chính trị mà Hiến pháp cần có.

Mô thức tổ chức vận hành xã hội XHCN như vậy, cũng có khoảng cách khác biệt quá xa với tinh thần của nền cộng hòa theo tư duy Hồ Chí Minh. Do vậy, cũng không thể ghép “XHCN” đó với “cộng hòa” trong cụm từ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” để giữ lại cái tên nước Việt Nam là nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” như đã ghi trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992.

Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1946 là một bước thụt lụi. Không có những đột phá về cải cách thể chế trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khó có thể có được kết quả lập hiến ngang tầm với giai đoạn phát triển mới.

Mấy kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Xin nêu mấy vấn đề, cũng có thể coi là những ý tưởng muốn góp vào Hiến pháp sửa đổi:

- Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Các dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất, đều bình đẳng, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, đảng phái.

- Chế độ chính trị mà Việt Nam lựa chọn đưa vào Hiến pháp là Cộng hòa (hoặc Cộng hòa – Dân chủ hay Cộng hòa – Dân chủ - Nhân dân). Sứ mệnh với tầm nhìn xa của chính thể Cộng hòa là bảo vệ nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

- Lợi quyền lớn nhất, cao nhất kể cả quyền sửa Hiến pháp là của toàn dân. Nghiêm cấm bất kỳ sự áp đặt lợi quyền nào khác lên trên lợi quyền của dân, do dân, vì dân.

- Nhà nước của nước Cộng hòa Việt Nam (hoặc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Việt nam) là Nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập, của dân, do dân, vì dân chứ không thể chỉ phân công ba quyền dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng như hiện nay.

- Điều 4 của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định Đảng Cộng sản Việt nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội Việt Nam. Thiết nghĩ, trong Hiến pháp sửa đổi, điều này nên dành cho những quy định của Hiến pháp về Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền phải trung thành với Hiến pháp và tuân thủ pháp luật, được nhân dân lựa chọn với những giới hạn thời gian nhất định, chịu sự giám sát, phán xét và xử lý của nhân dân theo Luật định.

- Với tầm của Hiến pháp, cần có quyết sách đúng và rõ về chủ quyền và quyền sở hữu về đất đai.

Đất đai là tài nguyên và môi trường tự nhiên, như tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên nước, thời tiết khí hậu và đa dạng sinh học, vùng trời, vùng biển và hải đảo . . . thuộc chủ quyền quốc gia, Nhà nước được trao quyền quản lý, ai khai thác sử dụng phải được Nhà nước cho phép, chịu sự chế tài của pháp luật và phải nộp thuế cho Nhà nước.

Đất được đưa vào sử dụng, trở thành sản phẩm của lao động (thậm chí cả lao động cha truyền con nối), là tài sản của chủ thể sản xuất kinh doanh nhất định. Trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất, như các yếu tố công cụ khác là vật sở hữu của nông dân, không có lý gì đất ở đây không phải là vật sở hữu của nhà nông. Đất là yếu tố cấu thành tài sản trong bất động sản, vốn là một thể thống nhất không thể chia cắt được, tất yếu phải là tài sản, là vật sở hữu của chủ thể kinh doanh bất động sản.

Vì thế với tầm Hiến pháp, lần sửa đổi này, cần có quyết sách đúng về chủ quyền quốc gia về tài nguyên và môi trường tự nhiên, trong đó có tài nguyên đất. Và cần có sự thừa nhận quyền sở hữu của các chủ thể sử dụng đất với tư cách là tài sản, là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất như bao nhiêu yếu tố khác vốn đã là sở hữu của họ, trong đó có chủ thể là tư nhân (là chủ sở hữu tư nhân), có chủ thể là tổ chức xã hội (là sở hữu tập thể) và có chủ thể là Nhà nước (là sở hữu Nhà nước).

Đất đai là tài sản có chủ sở hữu rõ ràng, trong kinh tế thị trường việc dịch chuyển quyền sở hữu dưới hình thức mua bán đất là tất yếu. Nhà nước khi có nhu cầu vì quốc kế dân sinh thường phải trưng mua theo cơ chế và giá cả thị trường.

- Mô hình kinh tế tổng quát bị chi phối bởi thể chế kinh tế nặng về công hữu là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đã không còn phù hợp, thiết nghĩ phải thay đổi trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Mô hình kinh tế được lựa chọn, thay thế có những đặc trưng cơ bản là: (1) Kinh tế thị trường hiện đại; (2) Hai loại hình – công hữu và tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; ba khu vực - kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp; với đa dạng các chủ thể kinh doanh bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không coi công hữu là nền tảng và cũng không coi kinh tế Nhà nước là chủ đạo, mà chỉ xác định đúng mức vai trò của Nhà nước pháp quyền đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam; (3) Thực thi dân chủ trong kinh tế, mà vấn đề cốt lõi là quyền của người dân và thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp; (4) Liên kết hợp tác và hội nhập quốc tế.

PGS. Đào Công Tiến
Nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế VN.

“Biếu không” nước ngoài mỏ than tốt nhất

Lãnh đạo...."sáng suốt", "tài tình".... he he....


Một mỏ than lộ thiên với chất lượng than tốt nhất ở Việt Nam đang là “lãnh địa riêng” của một công ty Indonesia. Mỗi năm, công ty này hưởng 90% lợi nhuận trong khi phía Việt Nam chỉ được hưởng 10%.
Nghịch lý
Ngày 19.4.1991, Công ty than Uông Bí (TUB), đơn vị thành viên của Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty Pt.Vietmindo Energitama, 100% vốn Indonesia (VMD). Theo đó, VMD sẽ đầu tư toàn bộ máy móc, công nghệ để khai thác trong 30 năm mỏ than Uông Thượng, Đồng Vông. Lợi nhuận được chia theo tỷ lệ 90% cho VMD và 10% còn lại là của TUB. Đây là mỏ than lộ thiên có diện tích trên 1.000 ha, nằm trên địa bàn P.Vàng Danh, TP.Uông Bí và cũng là nơi có vỉa than tốt hạng nhất ở Quảng Ninh.

VMD chỉ việc khai thác trên mặt đất là đã dễ dàng thu được than cám 4, cám 5, là những loại than có chất lượng tốt nhất hiện nay. Trong khi đó, các doanh nghiệp (DN) thành viên Vinacomin như Công ty than Mạo Khê, than Núi Béo, thậm chí cả TUB phải đầu tư hàng ngàn tỉ đồng vào công nghệ khai thác hầm lò và dùng sức người đào sâu vào lòng đất cả trăm mét mới lấy lên được than.
Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, hợp đồng hợp tác và luận chứng kinh tế kỹ thuật quy định VMD chỉ được phép khai thác than nhằm mục đích duy nhất là xuất khẩu. Quy định của hợp đồng hợp tác khống chế mỗi năm VMD chỉ được phép khai thác 500.000 tấn than thương phẩm, tương đương khoảng 750.000 tấn than nguyên khai. Trên thực tế, nhiều năm qua VMD luôn khai thác vượt con số nói trên. Đơn cử năm 2010, VMD đã khai thác khoảng 750.000 tấn than thương phẩm, năm 2011 là trên 800.000 tấn.
Có thể Việt nam đang phải nhập khẩu than của chính mình
Theo Vinacomin, ước tính vào năm 2014, 2015 Việt Nam sẽ nhập khẩu khoảng 1-6 triệu tấn than. Lượng than nhập khẩu sẽ tăng lên hằng năm. Dự kiến đến năm 2025, lượng than nhập khẩu lên tới 40 triệu tấn. Than nhập khẩu chủ yếu sẽ được cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Giữa năm 2011, lần đầu tiên Việt Nam đã nhập khẩu thí điểm 9.500 tấn than từ chính Indonesia với giá 100,6 USD/tấn than (tính cả cước vận tải). Lãnh đạo Vinacomin khẳng định việc nhập khẩu là để thăm dò thị trường, làm quen với phương thức nhập khẩu, vận chuyển. Rất có thể, Việt Nam đang phải nhập khẩu than của chính mình. Vinacomin chọn Indonesia để “thí điểm” bởi đây là một trong những nguồn cung phù hợp nhất với Việt Nam hiện nay, cả về quãng đường vận chuyển, loại than lẫn giá thành. (Thái Uyên)

Cũng theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, toàn bộ các công đoạn sản xuất, khai thác và kinh doanh than được VMD thực hiện theo dây chuyền khép kín. Khai trường cũng như nơi sàng tuyển than của VMD luôn đặt trong tình trạng “nội bất xuất ngoại bất nhập”. VMD còn có cả một cảng riêng để xuất khẩu than mà muốn xuất hiện tại đây để kiểm tra hay thực hiện công tác về chuyên môn, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng như đối tác TUB phải được sự cho phép của VMD (?!).
Còn chịu thiệt dài dài
Trao đổi với PV Thanh Niên, ông Phạm Văn Tứ, Phó tổng giám đốc TUB, thừa nhận tình trạng trên là có thật, nhưng “nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do lịch sử để lại” và “bản thân chúng tôi là những người đi sau, thừa kế”. Theo ông Tứ, bản hợp đồng liên doanh trên danh nghĩa là do TUB ký kết với VMD nhưng thực tế TUB không được quyết định mà do Bộ Công nghiệp thời đó trực tiếp phê duyệt.
“Có thể nói, VMD là DN nước ngoài đầu tiên và cũng là duy nhất hợp tác kinh doanh với ngành than cho đến nay. Trong quá trình hợp tác chúng tôi thấy rằng việc ký kết hợp đồng thời điểm đó chưa tính toán hết những vấn đề phát sinh hay nói đúng hơn là có nhiều kẽ hở khiến mình phải chịu thiệt thòi”, ông Tứ nói.
Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, hợp đồng ký kết giữa hai bên không hề có một điều khoản nào tạm dừng hoạt động của VMD kể cả trong trường hợp DN này vi phạm hợp đồng. Mặt khác, toàn bộ hoạt động khai thác, sản xuất kinh doanh đều ghi rõ VMD là người điều hành. TUB không được phép kiểm tra, thậm chí việc rót than xuống cảng đưa lên tàu nước ngoài cũng do VMD trực tiếp thực hiện và TUB không được phép can thiệp.
Đối với việc kiểm soát số lượng than do VMD sản xuất hằng năm, ông Phạm Văn Tứ cũng cho rằng chỉ được biết qua khâu hậu kiểm, bởi than từ mỏ lấy lên, sàng tuyển cho đến khâu vận chuyển ra cảng bán đều do VMD thực hiện, TUB không được phép kiểm tra trực tiếp. Mặc dù pháp luật Việt Nam bắt buộc việc khai thác khoáng sản hiện nay phải có giấy phép quy định về sản lượng theo hằng năm nhưng tại các mỏ của VMD, giấy phép khai khoáng không có hiệu lực, bởi hợp đồng liên doanh được ký trước thời điểm quy định về giấy phép khai thác khoáng sản.
Đánh giá về vai trò đối tác của TUB, ông Tứ cay đắng: “Chúng tôi chỉ biết đi vào đi ra và nghiên cứu khoa học mà thôi. Trước tình trạng này, chúng tôi đã nhiều lần đề nghị VMD đàm phán lại hợp đồng với các điều khoản công bằng hơn cho đối tác nhưng đến nay họ chưa đồng ý. Điều này cũng đồng nghĩa với những thiệt thòi của chúng ta sẽ tiếp tục kéo dài cho đến khi hết hạn hợp đồng (tức năm 2021 - PV)”.
Trong khi đó, theo nhiều thông tin PV Thanh Niên có được, trong quá trình khai thác, VMD đã nhiều lần có văn bản đề nghị các cơ quan chức năng cho phép nâng sản lượng khai thác; đồng thời xin gia hạn kéo dài hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ông Phạm Văn Tứ cho biết thêm: “Than ở Uông Bí ngày càng cạn kiệt, chúng tôi cũng muốn giữ một phần tài nguyên để cho công ty mình khai thác nhưng bây giờ họ đang tiếp tục lập các dự án mới khai thác 1-2 triệu tấn. Việc này TUB không thể can thiệp được mà phải do các cơ quan khác cao hơn”.
Thất thoát, lãng phí rất lớn
Nhìn từ bên ngoài, khai trường mênh mông của VMD là một khu vực biệt lập được bảo vệ bởi hệ thống barie có gắn các thiết bị giám sát điện tử cực kỳ hiện đại. Thế nhưng, đi sâu vào bên trong là cảnh tượng hàng trăm người dân thường trực mót than rất lộn xộn, nguy hiểm. Tại khu vực chứa bãi thải của VMD rộng tương đương một sân bóng đá nằm trên một triền núi, mỗi khi một chiếc xe tải vừa nghiêng thùng đổ đất đá, xít (bã thải sau khi sàng tuyển than) xuống thì từng đoàn người xông vào tranh cướp mót than. Mỗi người cầm theo một bao tải dứa và cào sắt nhẫn nại nhặt từng cục than cho vào bao. Chị Lê, một người mót than cho biết: “Nếu chăm chỉ thì mỗi ngày cũng được vài ba tạ than, bán được cỡ dăm trăm ngàn đồng, hơn hẳn làm nông ở nhà”.

Thượng tá Nguyễn Quang Thành, Trưởng công an TX.Uông Bí, cho biết khai trường của VMD là khu vực cực kỳ phức tạp về tình hình an ninh trật tự. Tại đây luôn có khoảng 500 - 600 người dân túc trực mót than, không ít đối tượng lợi dụng vào việc này để ăn cắp than. Căn cứ theo các điều khoản hợp đồng ký với Công ty than Uông Bí, VMD đã thuê một số DN bên ngoài vào tham gia bóc tách lớp đất đá bên trên để họ lấy than phía bên dưới. Tuy nhiên, phía VMD lại không quản lý được mà để cho một số đơn vị này tự tung tự tác, múc cả đất đá lẫn than lên để ăn cắp, hoặc bật đèn xanh cho người dân vào lấy than còn họ thu tiền “tô”. Thượng tá Thành còn cho biết: “Theo hợp đồng, mỗi năm VMD chỉ được khai thác một số lượng than nhất định, do đó họ sẵn sàng bóc tách lớp than tạp để khai thác vỉa than đẹp nhất. Điều này gây lãng phí cực lớn về tài nguyên quốc gia, gây bất ổn về an ninh trật tự, an toàn lao động”.
Đáng lưu ý, vào tháng 5.2010, khi kiểm tra tại khu vực các DN khai thác, cơ quan công an đã phát hiện, thu giữ 19 khẩu súng các loại, 6 áo giáp chống đạn, 109 viên đạn cùng nhiều dao kiếm. Đầu năm 2011, lực lượng chức năng qua kiểm tra tiếp tục phát hiện, thu giữ được 7 khẩu súng, 30 viên đạn, cùng nhiều dao kiếm các loại.

Thái Sơn - Káp Long

http://www.baomoi.com/Home/ThiTruong/www.thanhnien.com.vn/Bieu-khong-nuoc-ngoai-mo-than-tot-nhat/8508513.epi

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Phóng sự: Tạm bợ đời thợ

Hình như những công nhân này có tham gia xây dựng công trình nhà của....bí thư tỉnh Hải Dương. He he...


LTS: Dù nhan nhản người đã 10, 15 lăm năm làm công nhân, chỉ phải mất thêm chừng nửa số thời gian đã tích luỹ bảo hiểm là có thể hưởng lương hưu. Cũng không ít người đưa cả đại gia đình dài đến bốn thế hệ với hàng chục con người, từ bỏ ruộng vườn, mồ mả tổ tiên lên sống tại những đô thị, cha mẹ, con cái cùng sóng bước vào cổng xí nghiệp. Có kẻ đã tha hương đến quá nửa tuổi đời, bỏ phần nhiều sức khoẻ, tuổi xuân ở các khu công nghiệp, thành vợ – chồng, sinh con đẻ cái. Nhưng hình như với họ, đời công nhân vẫn chỉ là tạm bợ. Tạm bợ từ miếng ăn, chỗ ở, công việc đến tình yêu, lẽ sống và kiếp người. Đặc biệt, trong thời điểm kinh tế khó khăn này, sự tạm bợ đó càng trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Sau đây là ghi nhận của phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị sau những ngày làm công nhân cùng với hơn 1.000 con người khác tại doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ tên L. ở một khu công nghiệp thuộc tỉnh Bình Dương.

Bài 1: Những bữa ăn cầm hơi

SGTT.VN - Đúng 11 giờ 30, tiếng còi hơi réo lên inh tai như còi tàu thuỷ báo hiệu đến giờ nghỉ trưa, gần 200 con người đổ xô ra cổng, họ chen vai nhau, bước tất bật, vội vàng. Bốn tiếng rưỡi lao động buổi sáng đã xong, công nhân được nghỉ một tiếng ăn trưa.
Tôm rim – bữa ăn trưa sang và hiếm hoi của công nhân.



Ăn dưới 10.000 đồng

Trong xưởng giờ chỉ còn lại gần chục người, hầu hết là phụ nữ. Uể oải, bà Thành ngồi bệt xuống nền, bật nắp hộp cơm bằng nhựa mang theo, bên trong, chừng hai lưng cơm và miếng cá khô chiên cháy bằng ba ngón tay. Ít nhất, đã ba ngày nay, phần ăn của bà không thay đổi. Cạnh đó, phần ăn của bà Ba sang hơn, hai trái trứng vịt luộc, thêm chén canh suông. Hảo, người dân tộc thiểu số, chạy đi múc miếng nước đổ vào ấm điện (xưởng dùng để nấu nước sôi tẩy rửa) và bóc mì gói làm canh. Trong gần chục gô cơm trưa hôm đó, chỉ duy nhất một phần có thịt, bốn miếng nhỏ cỡ ngón tay cái. Một người biết đi chợ cũng tính ngay được không phần ăn nào quá 10.000 đồng, cho dù, công ty trả tiền ăn 13.000 đồng/bữa.

Chỉ chừng năm phút, tất cả đã nuốt xong cơm. Bà Thành bước ra bình nước, cầm ca, ngửa cổ uống đến “ực” một cái. Trước cái nhìn tò mò của một công nhân mới, bà cười ngượng: “Hôm nay lại cá khô”. Bốn tiếng rưỡi toàn đứng và đi, bước thêm vài ba trăm mét về phòng trọ dưới trời nắng như đổ lửa cũng trở nên nặng nhọc với người đã ngoài 40 tuổi.

Cách đó ngoài trăm bước chân, quán cơm bụi cũng tấp nập, nhưng toàn là dân phụ hồ. Dù xưởng có gần 200 công nhân, chỉ có hai người ghé ăn, một đang bệnh nặng, một bị hỏng xe. 15.000 đồng một phần, cơm thêm, trà đá thoải mái. Người bệnh tên Diễm An xuýt xoa: “Mắc hơn nấu nhưng em đi không nổi”. Cuối năm ngoái, cô bị tai nạn, tưởng chết, một mảng hộp sọ còn đang gửi ở bệnh viện chờ khi có đủ tiền mới lắp vô. Trưa nay không thấy cô “tự bồi dưỡng” bằng một hộp sữa tươi Vinamilk như mấy ngày trước vì buổi sáng, cô đã uống nó thay ăn.

Bữa sang

Thường lệ, cứ gần 6 giờ sáng, Tráng đi chợ mua đồ ăn cho cả ngày. Mang tiếng là “đi chợ” nhưng chỉ là bước ra cái quán tạp hoá gần đó. Rau: bữa thì bó muống già, khi lại cây cải thảo bằng bắp tay, hoặc mấy trái cà chua, dưa leo… Tất cả đều chia đôi, bữa trưa nhiều hơn chút. Mặn: vài ba quả trứng vịt, đậu hũ hoặc cá khô. Ngày hôm trước, sau khi cho tôi, người mới ở cùng phòng được nếm bữa trưa bằng hai quả trứng chiên mặn chát cộng nửa lon cá hộp và bữa tối bằng tô mì gói một trứng vào 9 giờ đêm (sau khi tăng ca về), nên hôm nay Tráng đãi tôi món tôm rim. Hành trình đi mua tôm sáng hôm đó lại phức tạp, cửa hàng tạp hoá không bán đồ tươi sống (thịt, cá) nên Tráng phải gửi 40.000 đồng để chủ quán mua giúp, trưa ghé lấy. Vừa đảo 15 con tôm sú nhỉnh hơn đầu đũa trong cái chảo đã cụt cán, người thanh niên 25 tuổi này chặc lưỡi: “Tôm to ghê!” “Hôm nay ăn sang thế?”, tôi hỏi. “Đãi anh đấy! Lâu lâu mà”, Tráng nói. Vào bữa, cả chủ và khách cùng để ý nhau “gắp đi anh”, mỗi chén cơm một con, khách ăn ba, chủ ăn hai. Số tôm còn lại ăn đến tối hôm sau mới hết.

Đã bảy năm bám trụ ở công ty, Tráng đã có tiền trách nhiệm, tháng nào thấp nhất cũng lãnh được 3,5 triệu đồng, khi nào có tăng ca, tiền lương tăng thêm khoảng 1 triệu đồng nữa. Kế hoạch chi tiêu của chàng thanh niên chỉ nặng 45kg này gói khá gọn: ăn một ngày (hai bữa) tối đa 20.000 đồng, kể cả mắm muối. Mỗi tháng, tiền phòng trọ cộng tiền điện nước: 400.000 đồng, ăn sáng: 250.000 đồng, mọi thứ lặt vặt khác: 100.000 – 200.000 đồng nữa. Không càphê, quán xá, một ngày hút ba điếu thuốc loại rẻ nhất, thỉnh thoảng nhậu tại phòng với mấy bạn trong khu trọ, tiền rượu là chính, 12.000 đồng/lít. Chấm hết. Nhẩm tính, mỗi tháng một công nhân chỉ xài hết 1/3 thu nhập của mình.

Tuy đi chợ từ sáng sớm, nhưng không ai nấu ăn sáng, họ chỉ cắm nồi cơm, rửa rau, ướp đồ ăn để trưa về nấu cho nhanh. Như hầu hết công nhân ở đây, cả hai anh em chúng tôi ghé vào xe bánh mì ngay cổng xưởng mua hai ổ, loại lớn 8.000 đồng, nhỏ 7.000 đồng. Đồ ăn sáng có năm loại: xôi (rẻ nhất), bánh mì, bún, mì – hủ tíu gõ, phở. Giá cao nhất 10.000 đồng/tô. Tráng chậm rãi gặm, vừa đến nửa ổ, cậu ta gói lại “để dành đến nửa buổi ăn tiếp” vì lúc đó ai cũng đói. Tráng hay ăn bánh mì vì vừa đỡ 3.000 đồng, vừa để dành được.

Bồi dưỡng mì gói

Tối nay tăng ca, công nhân được nghỉ nửa tiếng đi ăn, từ 6 – 6 giờ 30 phút. Chẳng ai về nhà ăn cơm kịp vì thời gian ngắn quá, mọi người ra quán hoặc nhịn. Lại những món buổi sáng, có thêm cháo vịt. Ngoài Tráng, tôi rủ thêm hai vợ chồng công nhân, bốn tô cháo dọn ra, rau trộn sẵn, kèm ba miếng thịt vịt mỏng và miếng tiết heo. Bàn bên cạnh, mấy cô cậu công nhân trẻ, vừa ăn vừa tán tỉnh nhau, nhưng khi tính tiền cũng phần ai nấy trả. Góc bên kia, Hảo đang đứng một mình, cô nhịn. Bà Thành ngồi lại trong xưởng, sáng nay bà mang thêm hai củ khoai lang luộc.

8 giờ 30 tối, ngày làm việc đã cạn. Sau 12 tiếng đồng hồ chỉ đứng và đi, đôi chân bây giờ như muốn rụng ra. Cả hai ghé vô quán mua ba gói mì, hai quả trứng gà công nghiệp (một gói mua giùm cho một công nhân đang có bầu ở cùng dãy trọ) và hai bịch dầu gội. “Sao không mua luôn cả thùng mì, vừa rẻ hơn vừa đỡ mất công”, tôi hỏi. “Mua nhiều sẽ ăn nhiều, nhanh hết”, Tráng nói. Khát nước quá, tôi lấy thêm hai chai nước Trà xanh không độ trước sự can ngăn của Tráng. Tu được nửa chai, cậu ta dừng lại, vặn nắp “để dành buổi tối”. Ở phòng, bình nước 20 lít giá 7.000 đồng sau ba tháng uống đã cạn trơ từ hai hôm trước, nhưng phải đợi chủ nhật, Tráng mới đi mua vì “giờ chưa đến tháng”.

Tôi cầm gói mì mua giùm sang phòng trọ kế đó cho bà bầu, tên Hoa Định, vừa để làm quen. Năm nay cô 38 tuổi, người ngoài Bắc, đã làm cho công ty 11 năm. Vừa vác bụng bầu bảy tháng, vừa pha mì, Hoa Định kể: “Bây giờ có thai em còn ăn, ngày trước em nhịn luôn”. Tô mì gói và vài lát dưa leo nghi ngút khói, cô ăn uể oải, hết một nửa thì dừng lại, có lẽ vì ngán. 12 tiếng đứng máy khoan đã vắt kiệt sức của người sắp làm mẹ này, nhưng trong ánh mắt cô, luôn đau đáu một nỗi giày vò “chẳng có ai bên cạnh khi em chuyển dạ…”

bài và ảnh: Vĩnh Hoà

Bài 2: Bán sức mua bệnh

Lần tận mắt khối tài sản kếch xù trên đất của Bí thư tỉnh Hải Dương

(GDVN) - Thời gian gần đây người dân ở xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang - Hải Dương đang đồn thổi nhau và không tiếc lời khen ngợi, ngưỡng mộ đối với độ hoành tráng và kiến trúc tuyệt đẹp của khu nhà vườn trên diện tích đất hơn 5.000 m2 được người dân địa phương xác định là của gia đình ông Bùi Thanh Quyến - Bí thư tỉnh Hải Dương.


"Kỳ quan sinh thái" của Bí thư tỉnh Hải Dương


Khu nhà vườn này tọa lạc ở một vùng quê nghèo của huyện Ninh Giang - Hải Dương nhưng không vì thế mà nó thiếu đi những nét đặc trưng của một khu nhà vườn hiện đại, ngược lại khu nhà này đã được thiết kế thành một quần thể nhà vườn hoành tráng với những kiến trúc lạ mắt những sẽ khiến cho những ai lần đầu đến đây phải ngỡ ngàng và "choáng ngợp"...


Khu nhà đang xây dựng của ông Bùi Thanh Quyến ở thôn Đông Tân - xã Ninh Thành - Ninh Giang - Hải Dương


>>Xem cận cảnh khối tài sản kếch xù trên khu đất 5000m2 của gia đình ông Bùi Thanh Quyến

>>Xem VIDEO khối tài sản trên khu đất của Bí thư tỉnh Hải Dương

Từ thông tin phản ánh qua đường dây nóng của người dân xã Ninh Thành (huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương) có nội dung: Công trình nhà vườn có diện tích khoảng hơn 5.000 m2 ở thôn Đông Tân (xã Ninh Thành) đang tiến hành xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp (đất chưa được chuyển đổi)? Và cũng theo phản ánh của người dân thì khu nhà vườn đang xây dựng trên diện tích đất thuộc sở hữu của gia đình ông Bùi Thanh Quyến – Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương?

Phóng viên Báo Giáo dục Việt Nam đã về thôn Đông Tân, xã Ninh Thành (Ninh Giang - Hải Dương) để xác minh thông tin này.

Khối "tài sản kếch xù" trong khu nhà vườn

Khi chúng tôi có mặt tại đây, điều dễ dàng nhận thấy đó là những tiếng nổ của các loại máy cẩu, máy xây dựng công trình nơi được coi như một "đại công trường" đang thi công.

Đi từ con đường trải bê tông dẫn vào làng hiện ra một “tư dinh” rất hoành tráng bởi hệ thống tường rào được xây kiên cố cao chừng 3m cùng một hàng cây xanh nhấp nhô chạy song song sát bên tường.

Vào bên trong khu nhà vườn đang xây dựng này thực sự khiến chúng tôi bị “choáng ngợp” trước những gì được “mắt thấy tai nghe”. Và chính xác hơn, nó giống như một khu nghỉ dưỡng sinh thái lý tưởng ở những khu du lịch nổi tiếng.

Theo điều tra của phóng viên và thông tin của một số người dân địa phương, công nhân xây dựng ở đây cho biết, toàn bộ khuôn viên khu nhà vườn này có tổng diện tích khoảng trên 5.000 m2 bao gồm một ngôi nhà 3 tầng (1 tầng hầm và 2 tầng nổi - PV) được thiết kế theo phong cách hiện đại và khác lạ (tức là, ngoài tầng hầm và tầng 1 được xây bình thường thì tầng 2 của ngôi nhà sẽ được làm hoàn toàn bằng gỗ, mái cong hình mái chùa); hệ thống dẫn nước đến 2 hòn non bộ "khổng lồ" bằng đá xanh được thiết kế công phu, đẹp mắt để điều hòa sinh thái cho khu nhà; một "rừng" cây cảnh thuộc dạng quý hiếm cũng khiến mọi người phải ao ước được sở hữu…

Theo chỉ dẫn của những người thợ xây dựng ở đây, tầng hầm nằm sâu dưới lòng đất khoảng 3m. Theo sơ đồ thiết kế hệ thống phòng sẽ có 4 phòng nhỏ và 1 phòng lớn, trong đó, có 3 phòng ngủ, 1 phòng khách và 1 phòng hát?

Cũng theo những người công nhân xây dựng ở đây cho biết, từ khởi công đến khi hoàn thành, chủ nhà phải bỏ ra một khoản tiền lớn cho phần chi phí xây dựng. Chưa hết, để trang trí cho ngôi nhà này, trong bản thiết kế xây dựng còn được ốp lát bằng các loại gỗ quý và ước tính cũng phải "ngốn" hết khoản tiền không nhỏ. Như vậy, nếu các thông tin mà những người công nhân này cận kề với giá trị thực và chỉ nhẩm tính thì chi phí xây dựng ngôi nhà sẽ là một con số không hề nhỏ chút nào...?

Bạn thấy thế nào về khu nhà vườn của gia đình ông Bí thư tỉnh Hải Dương?
Quá hoành tráng
Rất đẹp
Bình thường
ý kiến khác




Tầng 1 của ngôi nhà


Sự kỳ công, đắt đỏ của khu nhà vườn này còn phải kể đến một hệ thống đường dẫn nước từ bên ngoài vào rồi cung cấp cho các hòn non bộ "khổng lồ" ở trước và sau khu nhà, góp phần tô điểm cho khuôn viên của khu nhà vườn thêm lộng lẫy. Theo những người thợ tại đây, những loại đá xanh, đá đỏ quý được đưa từ vùng đất Ninh Bình, Thanh Hóa và một số nơi khác về.

Theo tìm hiểu của PV, và thông tin của những công nhân xây dựng ở đây cho biết: toàn bộ các loại đá được đưa về đây, giá trị của chúng cũng lên đến con số rất 'khủng'. Trong đó, riêng tổ hợp hòn non bộ ở phía sau nhà cũng không kém đắt tiền. "Chi phí để mua các loại đá về cũng hết khá nhiều tiền, nhưng đắt nhất là loại đá đỏ được đặt ở cổng chính vào và một hòn khác ở trên đồi" - ông K, một công nhân xây dựng ở đây cho biết.

Và "rừng" cây, gỗ quý...

Tất cả những con số trên là những điều có thể đánh giá được bằng phép tính đơn giản, nhưng những cây xanh quý hiếm được coi là "tài sản" vô giá trong khu vườn này. Đó là một "rừng" cây, gỗ quý được trồng ngay hàng, thẳng lối để "trang điểm" cho khu nhà vườn này như: cây sưa hàng trăm năm tuổi, tùng la hán, gốc thị lâu năm... và một số cây quý có nguồn gốc từ nước ngoài.

Đặc biệt là sự có mặt của gốc cây sưa hơn 1 vòng tay người ôm và cây tùng la hán ước tính khoảng vài trăm năm tuổi. Theo như đánh giá của những nghệ nhân, những chuyên gia về cây thì có thể những loại cây kể trên có giá trị một vài trăm triệu cho đến vài tỷ, thậm chí có những cây đặc biệt quý có thể có giá vài chục tỷ...

Cây sưa và đá ở trong khu nhà vườn


"Nói chung cây cảnh là vô giá và nó phụ thuộc vào sở thích của mỗi người nên đắt hay rẻ cũng khó nói lắm. Nhưng ở đây có hai cây có giá vài tỷ đồng là cây tùng la hán ở phía trước nhà và cây sưa. Vào thời điểm đắt nhất, năm 2010, thì cây tùng la hán có giá rất cao, cây sưa ở trên đồi kia đâu như cũng có giá phải tính bằng đô (USD). Còn lại những cây khác thì giá vô vàn lắm..." - ông K chỉ tay về hướng cây sưa ở trên đồi (đồi nhân tạo trong khu nhà vườn - PV) nói.

Cán bộ UBND đi nghỉ mát vào ngày làm việc?

Khi PV đến UBND xã Ninh Thành (ngày 16/5) để liên hệ công tác báo chí và xác minh nguồn gốc đất như theo phản ánh của người dân thì ông Vũ Thành Lượng Chủ tịch UBND xã Ninh Thành từ chối không hợp tác: "Chủ tịch đi vắng không tiếp được". Trong khi đó, ông chủ tịch xã vẫn ngồi chễm chệ trong phòng kế toán? Thậm chí, ông chủ tịch xã còn tuôn ra những ngôn ngữ hơi khiếm nhã và "lệnh" cho CA xã "mời" PV ra khỏi ủy ban(!?).

Trước đó, thứ 2, ngày 14/5, phóng viên đã điện thoại để đặt lịch làm việc với UBND xã nhưng điện thoại bàn Văn phòng ủy ban chỉ có chuông và không ai nhấc máy. Sau đó, PV tiếp tục điện thoại cho ông Vũ Thành Lượng Chủ tịch xã nhưng đầu dây bên kia chỉ tiếng thuê bao hiện giờ không liên lạc được?

Theo ông Nguyễn Văn Kiệt Chánh Văn phòng UBND xã Ninh Thành cho biết: "Hôm đó (14/5), chúng tôi đang đi du lịch ở Huế?".

Qua nhiều lần liên lạc bằng điện thoại, phóng viên đã gặp được ông Bùi Thanh Quyến. Trao đổi với phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Bùi Thanh Quyến, Bí thư tỉnh ủy Hải Dương đã khẳng định: Thông tin về việc ông xây nhà trên đất nông nghiệp (đất chưa chuyển đổi) là không chính xác. "Khu đất này đã được mua của các hộ dân ở địa phương và cách đây gần chục năm, đây là đất đã được chuyển đổi, hợp pháp..."_Ông Quyến xác nhận.

Báo Giáo dục Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin này đến bạn đọc...